[ad_1]
Các nhà khoa học tại Đại học Vrije (VU) ở Amsterdam đã xác định được các biến thể gen gây hại hiếm gặp làm tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer (AD).
“Kết quả của chúng tôi cung cấp bằng chứng bổ sung về vai trò chính đối với quá trình xử lý protein tiền chất amyloid-β, tập hợp amyloid-β, chuyển hóa lipid và chức năng vi mô trong AD,” các tác giả đã viết trong một bài báo đăng trên tạp chí di truyền tự nhiên vào thứ Hai.
Bằng cách sử dụng phân tích gánh nặng dựa trên gen thay cho các nghiên cứu liên kết trên toàn bộ bộ gen (GWAS) phổ biến hơn, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa các biến thể hiếm gặp, gây hại trong ATP8B4 và ABCA1 với nguy cơ AD và tín hiệu trong ADAM10, cũng như hiếm gặp. -gánh nặng biến đổi trong gen RIN3, CLU, ZCWPW1 và ACE, theo GenEngNews.
Đột biến gây hại ở ATP8B4 — enzym ATPase — nghiên cứu cho thấy xảy ra ở 3,6% bệnh nhân khởi phát sớm, 3,1% bệnh nhân khởi phát muộn và 2,1% ở những người không mắc chứng mất trí nhớ.
“Chúng tôi thấy rằng đột biến tên lửa [in ATP8B4 ] liên quan đến nguy cơ gia tăng cao hơn (nguy cơ tăng gấp 1,6 lần trong các trường hợp AD khởi phát sớm so với người không mang mầm bệnh) so với đột biến cắt ngắn (gấp 1,2 lần), điều này cho thấy các tác động có hại có thể là do tên lửa đạt được chức năng đột biến.” tác giả cấp cao, Henne Holstege, trợ lý giáo sư về di truyền học lâm sàng tại VU cho biết, GenEngNews đưa tin.
Đối với biến thể gen ở ABCA1, nghiên cứu cho thấy đột biến gen xảy ra ở 1,5% bệnh nhân khởi phát sớm, 1,1% bệnh nhân khởi phát muộn và 0,52% ở những người không mắc chứng mất trí nhớ.
Holstege lưu ý: “Ở đây, các đột biến cắt cụt có liên quan đến nguy cơ mắc AD cao hơn (tăng 4,7 lần) so với các đột biến sai nghĩa (gấp 2,7 lần), điều này cho thấy rằng việc làm hỏng hoặc mất chức năng protein làm tăng nguy cơ quan sát được”.
Đối với các biến thể trong ADAM10, kết quả cho thấy các đột biến chỉ xảy ra ở 0,23% bệnh nhân khởi phát sớm, 0,05% bệnh nhân khởi phát muộn và 0,02% ở những người không mắc chứng mất trí nhớ.
Holstege nhận xét: “Mang theo một biến thể gây hại có liên quan đến nguy cơ mắc AD tăng gấp 9 lần. “Những biến thể này bao gồm các biến thể cắt ngắn protein và tên lửa, cho thấy rằng việc mất chức năng protein hoặc suy giảm protein làm tăng nguy cơ.”
Mặc dù vậy, nhiều nghiên cứu ủng hộ lý thuyết β-amyloid của QUẢNG CÁO đang được tranh luận sôi nổi do thiếu hiệu quả của các loại thuốc AD nhắm vào sự lắng đọng hoặc thoái hóa-amyloid.
Tuy nhiên, thành công gần đây của các chất làm sạch amyloid như Aducanumab hoặc Lecanemab có thể thay đổi quan điểm.
Holstege gợi ý: “Điều trị sớm bằng Aducanumab hoặc Lecanemab có thể rất quan trọng đối với hiệu quả. “Ngoài ra, lĩnh vực này cần tập trung vào việc tạo ra các phương pháp điều trị ‘chỉnh sửa’ hoặc hỗ trợ các cơ chế nội sinh liên quan đến quá trình xử lý và giải phóng protein. Khi áp dụng cho những người có nguy cơ mắc bệnh trước khi phát bệnh, các tác nhân như vậy có thể ngăn chặn lượng amyloid hoặc các protein tổng hợp khác tích tụ đến mức liên quan đến bệnh.”
Holstege tin rằng các nghiên cứu lớn hơn với sự hợp tác quốc tế sẽ giúp phát hiện ra nhiều gen liên quan đến nguy cơ mắc AD cao hơn.
Tuy nhiên, những phát hiện của nghiên cứu này sẽ giúp mở ra cơ hội hiểu rõ hơn và điều trị AD ở bệnh nhân.
[ad_2]
Source link
Thêm bình luận